I . Thời Trung Cổ (TK 4 và 5 – TK 14 và 15, khoảng 1000 năm)
I . Thời Trung Cổ (TK 4 và 5 – TK 14 và 15, khoảng 1000 năm)
Nền văn minh Trung Quốc là nền văn minh duy nhất không bị gián đoạn trong lịch sử loài người. Trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử, nền văn minh Trung Quốc đã hình thành những đặc điểm chủ yếu sau đây.
Thứ nhất, nền văn minh Trung Hoa là nền văn minh phát triển không ngừng và trải qua những giai đoạn rõ rệt. Khi một giai đoạn nhất định suy tàn, nó sẽ thay đổi và sẽ tiếp tục sinh trưởng phát triển. Vòng lặp như vậy đã làm cho sức sống của nền văn minh Hoa trở nên vô tận và tiếp tục cho đến ngày nay.
Thứ hai nền văn minh Trung Hoa chưa bao giờ bị gián đoạn, chủ yếu là nhờ vào sự tích lũy văn minh không ngừng. Sự tích lũy này được thể hiện ở hai khía cạnh:
Một nền văn minh huy hoàng và lâu đời luôn có trong mình những giá trị xuất sắc về văn hóa, tinh thần hoặc vật chất để truyền lại cho thế hệ sau. Những giá trị này tuy đã trải qua hàng nghìn năm nhưng vẫn sẽ luôn có nhiều giá trị cần học hỏi. Sau đây hãy cùng HiCampus điểm qua một số giá trị nổi bật của nền văn minh Trung Hoa nhé!
Cốt lõi tư tưởng của nền văn minh Trung Hoa là việc thiết lập các giáo lý Thần đạo, giáo dục lễ nhạc, khác biệt Hoa – Di. Đồng thời cũng đề cao nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Ngoài ra, Dịch học là căn bản của nền văn minh Trung Hoa rộng lớn và sâu sắc.
Bách gia chư tử có đặc điểm chung là đều kế thừa sự giáo dục về thi họa lễ nhạc của hoàng gia, đều tôn trọng lễ nghi quân thần phụ tử và sự khác biệt vợ chồng con cái. Vào thời Xuân Thu, khi hoàng thất suy tàn, chư hầu tranh quyền đoạt lợi, các học giả đã đi khắp nơi để vạch ra kế hoạch và mưu lược, vì vậy đến thời Chiến Quốc đã xuất hiện cục diện “bách gia tranh minh”(百家争鸣).
Sự phân chia bách gia đã xuất hiện từ thời cha của Tư Mã Thiên là Tư Mã Đàm. Trong cuốn “Luận lục gia yếu chỉ”, ông đã chia bách gia thành 6 loại: Âm dương, Nho, Mặc, Danh, Pháp, Đạo. Sau này, Lưu Hâm đã thêm vào 4 loại khác là: Tung hoành, Tạp, Nông, Tiểu thuyết. Sau này, “Tiểu thuyết” đã không còn được công nhận, từ đó chỉ còn 9 phái gọi là “cửu lưu”.
Thi, thư, lễ, nhạc, dịch hợp thành Ngũ kinh, Ngũ kinh tương ứng với Ngũ thường. Ngũ thường bao gồm: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Theo đó, người nhân là người biết nhường nhịn và yêu thương người khác. Người nghĩa là người quyết đoán và công bằng. Người lễ là người khéo léo, cư xử đúng mực. Người trí là người biết phân biệt đúng sai phải trái. Người tín là người chân thành và giữ lời hứa.
Lục kinh là 6 cuốn sách cổ được Khổng Tử biên soạn và giảng dạy dưới thời tiên Tần. Trong đó bao gồm: Thi, thư, lễ, dịch, nhạc, Xuân Thu. Sáu cuốn sách này không phải do Khổng Tử viết mà ông chỉ biên soạn và chỉnh sửa lại.
Lục kinh chính là sự kết thừa và phát triển của nền văn minh Trung Hoa. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, đến nay những bộ sách này vẫn còn đang được nghiên cứu và giảng dạy.
Xem thêm: Du học Trung Quốc ngành Lịch sử học
Người ta thường nói: “Lịch sử là một tấm gương”. Lịch sử Trung Quốc cổ đại phong phú đang để lại vô số kinh nghiệm và bài học bổ ích cho thế hệ mai sau.
Trong bài viết này, HiCampus đã giới thiệu với các bạn thông về nền văn minh Trung Hoa. Hi vọng rằng thông qua bài viết này, các bạn đã tiếp thu thêm được nhiều kiến thức mới. HiCampus chúc bạn sẽ có một mùa du học thành công!
Nạn đói, bệnh tật và tuổi thọ trung bình ngắn đã định hình nên niềm tin thời Trung cổ.
Nơi Cái Chết Màu Đen ngự trị (dịch hạch thế kỷ 13) và quần chúng nhân dân đói khổ mơ về mơ về sự giàu có. Một thế giới non trẻ và hoảng loạn bị thống trị bởi những cảm xúc đột ngột và phi lý, sợ hãi thế lực phi nhiên và cũng hy vọng vào nó.
Sử viết về vương quốc và giám mục: Nếu mèo có thể viết lịch sử, lịch sử đó chắc hẳn phải là về loài mèo. Bây giờ, lịch sử con người được viết nên bởi những người biết đọc, biết viết vì vậy nói về những người biết đọc, biết viết và về nhân vật quan trọng với họ. Trong thời kỳ Trung cổ, khoảng giữa TK 6 và TK 14, thời kỳ mà giám mục hoặc hoàng tử hoặc bất cứ ai khác là người trả tiền, nắm giữ hoặc trừng phạt những người viết sử, thường là thư lại hay thầy tu. Vì vậy chúng ta biết nhiều hơn về nhóm người này hơn những dân thường. Một phần vì cá nhân họ quan trọng hơn và cũng vì 1 khi chúng ta rời khỏi lớp trên của xã hội, chúng ta sẽ tiến vào bóng tối.
Vua đứng vương quốc, quyền lực thuộc về “liên bang thân vương”: Trong chế độ phong kiến, hay nói đúng hơn là trong thời loạn lạc, vua là người quyền lực cao nhất, có ảnh hưởng ngày càng tăng và bộ máy cầm quyền ngày càng mở rộng. Sau thế kỷ 11 ở Anh, Catalonia và Castile và sau TK 12 ở Pháp, bộ máy hoàng tộc bắt đầu gây dựng, cơ cấu tòa án và hành chính của 1 nhà nước bền vững. Vua được xức dầu trong lễ đăng quang và mang 1 sức mạnh thiêng liêng. Ông là người duy nhất được các thần thánh đầy sức mạnh bảo hộ. Bản thân ông cũng giống như 1 vị thánh: một biểu tượng của sự sinh sản. Người bảo vệ của những người dân nhỏ bé, 1 người chữa lành mọi vết thương. Xã hội phong kiến cũng sáng tạo ra thuyết thần học với hình tượng của riêng nó. Với 1 vị thánh hoàng tộc, trị vì như 1 vị chúa tể, lên ngôi vua nhờ chiến thắng hay phán định. Dưới đó là quỷ Sa tăng, hình ảnh của những chư hầu bất trung, những kẻ nổi loạn, kẻ phản bội. Bài học chính trị đã rõ ràng: kể cả khi vua thỉnh thoảng có gặp khó khăn, cuối cùng ông chắc chắn sẽ thắng. Tương lai luôn ủng hộ nhà vua. Ông được phong là chủ nhân vương quốc, đôi khi rộng đến nỗi phải mất hàng tuần thậm chí hàng tháng để đi hết. Ông là người chủ duy nhất không kính sợ bất cứ ai trừ Chúa Trời. Tất cả các vị vua, những người có quyền tối thượng đối với đất nước mình, cũng phải trung thành với Chúa Trời. Và điều này có nghĩa ông ta có điều kiện tốt để mở rộng lãnh thổ. Khi dòng dõi vương triều của 1 nước nào đó bị đứt hoặc khi chư hầu không thực hiện được nhiệm vụ, ông ta là người bảo vệ của giáo sĩ; ông ta là người bảo vệ đám dân thường; ông ta có thể giúp họ chống lại các nhà quý tộc phiền phức; nếu điều đó có lợi cho ông ta. Hoặc ông ta có thể kích động các quý tộc chống lại nhau.
Ngoài ra cũng có Hoàng đế thừa kế danh hiệu lẫy lừng của La mã và ký ức đầy quyền năng của Charlemagne (tranh Lễ đăng quang của Charlemagne). Nhưng trên thực tế, Charlemagne chỉ vất vả duy trì được địa vị của mình ở 1 số vùng của Đức và Ý. Các hoàng thân và những kẻ ngày càng có quyền thế ở Pháp, Anh và Tây Ban Nha chẳng coi ông ra gì. Ý tưởng đế quốc duy trì quan niệm cũ về sự thống nhất hoàn toàn dưới 1 quyền lực tối cao. Đây là bữa tiệc dành cho Hoàng đế Charles IV do vua Pháp Charles V tổ chức. Nhưng thực tế là không thống nhất. Sự bất hòa gay gắt nhất ở trong lãnh thổ của Hoàng đế. Đức – 1 phần vương quốc của ông – đang đảo điên vì nội chiến. Danh xưng của ông đang nằm trong tay các thân vương – chính những người đã tôn ông lên làm vua và cũng có thể phế truất ông. Quyền lực của vua thực sự phụ thuộc vào tầm ảnh hưởng cả vương thất.
Hai quyền lực: Hoàng đế, trên thực tế là người đứng đầu 1 liên bang các thân vương Đức. Cho đến TK 14, điều này được phản ánh qua danh xưng mới của vương quốc mà ông cai trị: Đế chế La Mã Thần thánh của dân tộc Đức. Nhưng quốc gia Cơ đốc giáo thời Trung cổ giống quái vật bằng đá 2 đầu, có 1 vị quân vương thế tục và 1 giáo hoàng. Và bởi vì 2 đầu thường không tốt bằng 1 đầu, nên mỗi người đã cố gắng thiết lập ảnh hưởng riêng. Cứ như thế họ tất bật đấu đá nhau suốt mấy trăm năm.
Hoàng đế và các quân vương các thời đại khẳng định rằng lễ phong thánh trong nghi thức đăng quang của họ khiến chức vụ của họ mang tính chất thiêng liêng, tôn giáo. Và cho họ quyền cai trị cả thầy tu lẫn thường dân và họ có quyền bổ nhiệm giám mục và thu tiền của nhà thờ. Ngược lại, Giáo hoàng khẳng định rằng mảnh đất linh hồn lớn hơn và thống trị bất cứ thế lực chính trị thế tục nào. Tuyên truyền của phe Giáo hội so sánh Giáo hoàng với mặt trời, hoàng đế và vua chỉ là mặt trăng lệ thuộc vào mặt trời và chỉ phản xạ ánh sáng mặt trời.
Mặc dù vậy, cuối cùng vấn đề rất thực tế: Ai sẽ làm ông chủ? Giáo hoàng tranh cãi với vua về việc ai có quyền chỉ định Giám mục – 1 địa vị vừa quyền lực trong nhà thờ, vừa là quý tộc phong kiến với điền trang rộng lớn. Giáo hoàng cũng tranh cãi với vua Pháp về quyền đánh thuế giới tăng lữ. Cuộc đấu tranh lâu dài này giữa nhà thờ và nhà vua, cuối cùng cũng đến hồi kết khi mà vua Pháp Phillip Công bằng, quyết tâm ngăn chặn tham vọng của Giáo hội và giáng cấp Giáo hoàng Boniface VIII. Khi ông này cố gắng ngăn cản Phillip đánh thuế giới tăng lữ Pháp. Phillip đã phái quân tới bắt ông năm 1303. Không chịu nổi cảnh tù tội, Boniface chết chỉ vài tháng sau đó. Sau đó, những người kế vị của Boniface đã trốn tránh ở Avignon, 1 thành phố tráng lệ biên giới Pháp, mà Phillip không có quyền động tới. Đây là cung điện thuộc giáo hoàng tại Avignon, nơi các giáo hoàng ngự cho đến năm 1378, sau đó 1 vài vị vẫn ngự ở đây và miễn cưỡng trở thành kẻ dưới quyền các vị vua Pháp. Danh tiếng và ảnh hưởng của giáo hoàng được khôi phục lại sau đó, nhưng tham vọng bá quyền của họ hoàn toàn bị đập tan sau sự kiện “Babylonish cativity” như đã được miêu tả. Thầy tu giữ vai trò tôn giáo, nhưng quyền lực tối cao thế tục, từ bây giờ, đã nằm chắc trong tay của vua và các thân vương.
Tuy vậy, 1 điều rất quan trọng, sau những cuộc giằng co quyết liệt này, vượt qua sự tranh chấp quyền lực, nhà thờ và vua tiếp tục cộng tác trong suốt thời kỳ Trung cổ và sau đó. Những giáo dân và những người lính tiếp tục ủng hộ nhau chống lại đẳng cấp thứ 3, quần chúng lao khổ…Một ngàn năm trước đó, Chúa Jesu đã khuyên các môn đệ của mình rằng Caesar nên thu thuế giới tăng lữ và bây giờ đại diện của Chúa Jesu cần phải nhắc đi nhắc lại điều này để mọi người tuân theo luật pháp và nộp thuế và nhận thức được vị trí của họ. Những thầy tu ít khi quên nhắc nhở họ.
Tuy nhiên, bên ngoài nhà thờ, bên ngoài các cung điện, có 1 thứ khác, 1 thế giới căn bản hơn nhiều. Thứ nhất, phần lớn người dân thời Trung cổ, sống gần với tự nhiên, mà tự nhiên thì hoang dã. Tự nhiên là đất hoang, đồng hoang, bụi rậm; là đầm lầy nơi mà bạn có thể rơi xuống và chết; là rừng già, bao la và nguy hiểm đến đáng sợ; hồi đó vẫn còn nhiều sói, lợn lòi, bò rừng, đặc biệt là sói, chúng đi lang thang khắp nơi, từ cánh đồng đến thị trấn, thậm chí đến cả Paris vào TK 15. Săn bắn không phải là 1 môn thể thao, mà là sự tự vệ cần thiết, và tất nhiên cũng là nguồn cung cấp thịt thiết yếu. Mọi người vào rừng để thu hoa quả dại, thảo dược và mật ong như thời đồ đá. Nhưng hầu hết thức ăn của họ, kể cả tầng lớp thượng lưu là ngũ cốc, phụ thuộc vào những mùa vụ bấp bênh. Vì vậy cuộc sống được đánh dấu bằng những nạn đói, thủ phạm giết 10% dân số. “Ban cho chúng con bánh mì hàng ngày” là 1 lời cầu nguyện rất thực tế và khẩn thiết.
Một thế giới thiếu thốn thường xuyên và nguồn thực phẩm bấp bênh, khiến mọi người mơ về 1 cuộc sống no đủ ở mảnh đất thần thoại Cockaigne, nơi mọi người đều béo tốt. Nơi mọi ngôi nhà được xây bánh hoặc kẹo mạch nha và đường phố trãi đầy bánh ngọt, xúc xích và thịt quay từ trên trời rơi xuống. Trong nhiều thế kỷ, thức ăn là biểu tượng tiêu biểu của sự sang trọng. Trong khi người nghèo đói rách thì người giàu có và quyền lực ăn thường là thừa mứa. Một là họ đau dạ dày, đau gan hoặc bệnh gút; hai là thừa quá nhiều năng lượng, phải tập thể dục điên cuồng để tiêu hóa bữa ăn. Trái lại một số dân lao khổ đói rách bị ảo giác có lẽ do quá đói hoặc ngộ độc thức ăn hoặc quá mong mỏi 1 phép lạ giúp họ sống sót trong thế giới mà họ không thể đương đầu. Cả ông chủ của họ cũng không tránh khỏi nổi khổ này. Mặc dù giàu họ cũng không thoải mái. Rốt cuộc thì “Thoải mái” là 1 khái niệm vô cùng mơ hồ.
Và đêm tối và lạnh hơn, chúng ta hãy tưởng tượng, thời đó không có đèn, thiết bị sưởi ấm hiếm và không có hiệu quả, thậm chí ánh sáng cũng là thứ sang trọng, trong túp lều thứ duy nhất hoạt động là cánh cửa. Thậm chí trong những căn nhà và cung điện lối vào rất nhỏ vì lý do an ninh, cũng chịu chung cảnh ngộ. Chỉ những người giàu có nhất, mới có vài ô cửa kính. Vì vậy, những ngôi nhà thường lạnh lẽo, ẩm mốc, tối tăm và có mùi khó chịu. Mọi người giữ ấm bằng cách mặc thêm quần áo, đứng dồn lại với nhau chống lại cái lạnh, ẩm ướt và cái đói.
Một bài thơ trung cổ về người thợ cày (Pier Plowman) đã cho chúng ta cảm nhận về thực tế thời đó:
Ta sẽ thấy nghèo đói là bạn hàng xóm của mình;
Như tù nhân trong ngục tối, như kẻ bần hàn dưới mái lều
Phải nuôi đàn con và bị chúa đất bóc lột
Dệt sợi được đồng nào thì phải mang ra hết đóng tô thuế
Hoặc mua sữa, thức ăn để nấu cháo
Cho lũ trẻ đói ngấu quanh bàn ăn”
Bài thơ vào cuối TK 14, sau 1 đợt dịch bệnh lớn tàn phá miền Tây. Điều đáng nói là, nạn đói đó không nghiệt ngã, tồi tệ bằng ở TK 12 và 13 khi điều kiện kinh tế tốt hơn và ở nhiều vùng thuộc châu Âu dân số đã đông đúc không kém gì TK 18. Nhưng điều kiện vật chất cơ bản nhìn chung vẫn còn rất tồi. Nên không ngạc nhiên khi con người thời trung đại có xu hướng chết trẻ. Một nữa số trẻ em sinh ra sẽ chết trong năm đầu đời và nhiều phụ nữ chết trong khi sinh nở.
Ở TK 15, tuổi thọ của quý tộc nhiều nơi vào khoảng 21. Thực vậy, thời trẻ của nhiều nhân vật thời trung đại là 1 trong những điều khiến ta ngạc nhiên nhất về họ. Thanh niên trời đó, hành động rất bồng bột. Họ có thể đã là những chiến binh dày dạn, nhưng họ dễ rơi nước mắt, dễ bị kích động, rất dễ trầm uất, thường ngây thơ, tự đắc, nhiệt tình và cả tin. Và trên thực tế, hầu hết mọi người đều như vậy.
Bên cạnh an ninh lỏng lẻo là dịch bệnh xảy ra liên tục: đậu mùa, bệnh lỵ, bệnh đường hô hấp và cả sốt rét. Có cả bệnh ngoài da, tồi tệ nhất là bệnh hủi, hành hạ 5% dân số thế kỷ 12 và 13. Nguy hiểm hơn cả là những dịch bệnh chết người. Khủng khiếp nhất là vào những năm 1340 và 1370, dịch Cái Chết Đen đã giết 1/3 dân số miền Tây; ở nhiều thành phố, một nữa dân số bỏ mạng.
Bên cạnh những nỗi sợ này, là bạo lực liên miên khiến con người ta trở nên hung dữ, thô bạo và lo âu. Cuộc sống lúc nào cũng đầy trắc trở. Bây giờ, hiển nhiên là nếu con người không thoải mái, không khỏe mạnh hoặc ốm đau – giàu thì béo phì, nghèo thì đói lả – chắc chắn họ sẽ đi đến phát điên hoặc sụp đổ bất thần. Đó là tình cảnh chung của người Trung cổ.
Họ cũng có cảm nhận không bình thường về thế lực siêu nhiên làm cho thần kinh họ vốn đã căng thẳng càng thêm mệt rã rời. Mọi người dường như dễ dàng tin vào giấc mơ, điềm báo, bóng ma. Đặc biệt là giới tu sĩ ăn chay và diệt dục trở thành 1 phần của khung kỷ luật. Và quan niệm tập trung vào thế giới nội tâm và thế giới của thiên thần và ma quỷ. Không nhà phân tâm học nghiên cứu kỹ giấc mơ của họ với nhiều sự say mê tận tụy như các thầy tu thời trung cổ. Nhưng những giáo dân cũng có chung những giấc mơ và ảo mộng trong xã hội rất ngẫu hứng này. Nơi mà không có quy tắc ứng xử nào để ngăn cản ngất đi. Và ác quỷ và thánh thần liên tục can thiệp vào mọi thứ cuộc sống hàng ngày.
Phát minh Đồng hồ đo giờ: Vì vậy đây là 1 cuộc sống không chính xác và tùy tiện. Một xã hội bị thống trị bởi những cảm xúc đột nhiên và phi lý. Trong đó khi 1 người nói anh ta sẽ làm gì đó và sau đó anh ta mơ và nhận được điềm báo (hoặc anh ta chỉ bịa ra thế) rồi thay đổi ý định. Hoặc anh ta từ bỏ ý định đó, đó là điều dễ dàng và dễ được chấp nhận. Bởi vì 2 lý do, thứ nhất họ cho rằng các quyền năng thần bí không bắt tội bất kỳ 1 sự bào chữa nào. Thứ 2 bản thân thời gian cũng là khái niệm mơ hồ và không nhất quán. Trên thực tế, nếu bạn muốn xem xét sự khác nhau giữa thời kỳ Trung cổ và ngày nay chỉ cần tưởng tượng 1 thế giới mà gần như không có cái đồng hồ nào.
Với nhiều người đo đếm thời gian quan trọng trên thế giới đến nỗi việc sống không có đồng hồ là không thể và không thích ứng được. Thời Trung cổ có đồng hồ cát, cái này đo được nữa giờ một – nhưng thực ra chúng chạy không chính xác lắm. Có cả đồng hồ mặt trời, nhưng không phải lúc nào cũng có nắng. Hầu hết mọi người đều như nông dân, mong chờ phép màu từ Giám mục. Bởi vì con gà trống trong làng đã dừng gáy, họ không còn cách nào khác để biết thời gian. Còn việc tính thời gian lớn hơn giờ, như năm và ngày, thậm chí vì những sự kiện trọng đại như sinh nhật của 1 quý tộc giàu có hoặc như hiến chương hoặc hiệp ước, cũng lẫn lộn hoàn toàn.
Theo các tài liệu Tôn giáo, năm bắt đầu vào Giáng sinh, ở Venice đó là ngày 1 tháng 3, Florence là 25/3, ở Pháp là ngày lễ Phục sinh. Đó chắc chắn là lý do cho cuộc điều tra quy mô lớn năm 1284 để tính tuổi nữ bá tước Champagne, người thừa kế 1 trong những gia tài vĩ đại nhất mọi thời đại (vào thời đó). Sau đó, tuy vậy một trong những bước tiến trí tuệ vĩ đại của lịch sử đã xảy ra. Lịch đã ra đời, ngày được chia thành các phần bằng nhau gọi là giờ. Các công cụ đo thời gian có các vạch để theo dõi tất cả các giờ.
Số liệu xây dựng, dân số, … chưa chính xác: Vào TK 14, đồng hồ cơ học quả lắc xuất hiện và tăng cường thêm các con số. Năm 1354, 1 con gà cất tiếng gáy và vỗ cánh trên chiếc đồng hồ vĩ đại ở Strabourg. Vì vậy từ đó, xuất hiện 1 thứ thời gian của con người, của lý trí, của dân thành thị, sinh ra ở thị trấn giống Rouen, dưới sự ảnh hưởng của các thương nhân, những người biết giá trị của thời gian. Bởi vì họ phải tính toán, lên kế hoạch chuyến đi, tính lợi nhuận. Tuy vậy, thứ tính thời gian này vẫn rất hiếm, vì ít người biết đến và sử dụng thành thạo số má. Tính toán các thứ là điều thần kỳ dành riêng cho các chuyên gia. Và rất nhiều người vẫn sử dụng cách tính giờ khác, tùy theo từng vùng. Thậm chí những người trí thức, bạn sẽ không muốn biết những số liệu của họ. Rất ít kiến trúc sư và kỹ sư chính xác tuyệt đối về tính toán của mình. Có nghĩa là rất nhiều công trình, tồn tại xiêu vẹo hoặc sụp đổ giống như tu viện TK 13 này. Và có nghĩa là ngân sách, thuế và kế hoạch tài chính toàn dựa trên các thông tin sai và bịa đặt.
Ngày nay cũng vậy, nhưng nó ở mức độ như TK 14 tại Anh nơi hội đồng Hoàng gia triển khai thu thuế giáo dân. Hội đồng ước tính có 45.000 giáo dân trong vương quốc. Trong khi chỉ việc xem danh sách đăng ký là biết chỉ có 8.600 dôi lên 5 lần so với thực tế. Lúc bấy giờ, tại thời Trung cổ, số má chỉ mang tính cách tượng trưng khi nói về binh lính 100.000 hay 200.000 người. Hoặc khi nói về 10.000 người bị chết trong trận đấu trong khi quân đội hiếm khi nhiều hơn 15.000 hoặc nhiều lắm là 20.000. Số thường được sử dụng khi các công chức thành phố những người quen với sổ sách thống kê phức tạp. Muốn khẳng định dân số của 1 thành phố là vài trăm nghìn trong khi thực tế chỉ khoảng 30.000 hoặc 40.000. Trên thực tế, ý niệm về sự chính xác, với việc tôn trọng các con số là rất xa lạ trong thế giới Trung cổ, một thế giới cũng chỉ vừa mới hình thành.
Vì trong thế giới này không có sự chính xác và cách tốt nhất để sống sót là sống ngày nào biết ngày đó. Đồng thời, đây cũng là 1 thế giới rất nghiệt ngã và giới hạn. Nhưng những tư tưởng giới hạn và vụng về của nó lại sáng tạo ra hàng loạt tuyệt tác nghệ thuật. Những tuyệt tác đã biến đây thành thời kỳ hưng thịnh lâu dài nhất khoảng 300 năm từ TK 12 đến TK 14.
II . Thành Thị và Nhà Thờ Lớn thời Trung Cổ (Cities and Cathedrals of the Middle Ages).
Những Thánh đường tôn giáo đồ sộ, tráng lệ. Làm Tốn nhiều tài nguyên. Hệ thống Thương mại, Công nghiệp châu Âu hình thành và phát triển. Mở đầu cho châu Âu và Đóng góp rất nhiều cho thương mại thế giới
Các nhà thờ vĩ đại biểu tượng cho tham vọng về vật chất và tinh thần thời kỳ này.
Các nhà thờ trên quy mô vô cùng hoành tráng. Những tòa tháp trên cảnh quan thời trung cổ. Cơ hội mới, thị trường mới. Khi các trung tâm thành thị châu Âu nắm lại vị trí quan trọng bị mất đi từ hàng ngàn năm nay. Chúng thách thức chính các triều đại phong kiến thống trị nó. “Thành phố và các nhà thờ”
Tập trước chúng ta chỉ mới nói đến những sai lầm (hạn chế, khó khăn, trì trệ,…) trong thời Trung cổ, ít nhất là đối với tầng lớp trung lưu châu Âu (vua và nhà thờ lo giành quyền lực, sản xuất kém, kỹ thuật chưa phát triển, dân nghèo đói, ăn uống dư thừa, bệnh tật, mê tín…). Đó là khi sự sợ hãi và lo lắng lên đến đỉnh điểm. Cái chết đau đớn ở mức độ cùng cực. Nạn đói và bệnh tật đã trở thành bệnh dịch, mê tín lan tràn khắp nơi. Tuy nhiên, sự thật nghiệt ngã này không làm lu mờ đi sự trỗi dậy của nghệ thuật. Chính hoàn cảnh khắc nghiệt, chính những đầu óc vụng về đã làm nên sự sáng tạo. Mà vẫn còn truyền cảm hứng cho chúng ta đến tận những thế kỷ sau này.
Nghệ thuật Trung cổ – Nhà Thờ đồ sộ ở TK 11 – 14: Khi nói về nghệ thuật Trung cổ, chúng ta thường liên tưởng đến các nhà thờ, vì nền văn hóa thời Trung cổ in đậm ở những lâu đài tôn giáo này. Nơi mà chúng đã thể hiện những khát vọng về vật chất thiết yếu nhất cũng như những thôi thúc nhất về tinh thần. Trong 3 thế kỷ từ 1050 đến 1350, chỉ riêng nước Pháp đã khai thác tới hàng triệu tấn đá để xây dựng 80 thánh đường, 500 nhà thờ, hàng chục nghìn nhà thờ xứ đạo. Người Pháp khai thác và vận chuyển nhiều đá trong 3 thế kỷ này, hơn cả người Ai Cập trong suốt thời đại của mình. Ngay cả kim tự tháp lớn nhất cũng chỉ tốn 2,5 triệu m3 đá.
Việc xây dựng các nhà thờ lớn sâu tới 40 – 50 feet trong lòng đất, tương đương với độ sâu của 1 nhà ga tàu điện ngầm. Trong những trường hợp này đã phải dùng đến 1 lượng đá lớn bằng lượng đá xây kim tự tháp. Cho đến năm 1400, dồn nhiều tiền của, đã có 1 nhà thờ cho mỗi 200 đàn ông, phụ nữ và trẻ em ở Christendom. Diện tích cho mỗi công trình tôn giáo này, chiếm 1 phần lớn diện tích thành phố. Nhà thờ Norwich. Ở những nơi như Norwich, Lincol, York, nơi có 20.000 dân sinh sống (thị trấn) có 140 nhà thờ. Tuy vậy, đây có thể không chính xác vì có thể vì 1 số nhà thờ lớn khác đã bị phá hủy. 1 hoặc 2 nhà thờ lân cận và cả những tòa nhà mới làm nơi ăn ở tạm thời cho những người đã mất nhà cửa, thay vì xây dựng các nhà thương điên. Mặc dù vậy, các nhà thờ tại Amiens, chiếm 1 diện tích 8500 yards để phục vụ khoảng 10.000 người cùng tham gia.
Chúng tôi đã làm 1 cuộc so sánh, hãy tửơng tượng 1 thành phố hiện đại có 1 sân vận động trung tâm, có sức chứa 1 triệu người. Cũng vĩ đại như vậy, là chiều cao của bức tường, tòa tháp và những đường xoắn ốc. Đó là nhà thờ ở Beauvais, Pháp, bạn có thể xây 1 tòa nhà 14 tầng, bên trong chổ ngồi của đội hợp xướng nhà thờ, mà không tính nóc, tòa nhà đó sẽ có chiều cao 175 foot = 53,34 m. Vào TK 12, những người đàn ông trong tu viện dòng thánh Bruno đã định xây dựng 1 tòa tháp hình chóp cao 105 m. Lạy Chúa, may mà chưa ai xây 1 tòa nhà 30 tầng ở đó để so sánh với nó. Và không ai xây dựng 1 tòa nhà 40 tầng ở Strasbourg để so sánh với tòa tháp nhà thờ cao 466 feet, 142 m. Đây là 1 dạng tự biểu hiện sức mạnh thể hiện sự chi phối cuộc sống ở những thành phố đông đúc, nơi có những tòa nhà cao vượt trội bên cạnh những tòa nhà thấp lùn. Những tòa nhà có thể nhìn thấy xa từ hàng dặm. Vì thế cho đến tận ngày nay, bạn có thể thấy tòa tháp của nhà thờ, khi còn cách ½ giờ lái xe cách Chartres.
Động lực xây dựng Thánh đường: Rõ ràng là tinh thần mà đã lên kế hoạch và xây dựng những công trình táo bạo này không phải tầm thường. Nó được kích thích từ 1 đức tin tôn giáo cũng như sự sùng bái tôn giáo đến kinh sợ. Chính điều này đã dẫn đến việc xây dựng các ngôi đền cho vị Thượng đế Cơ đốc giáo tráng lệ hơn cả thiên đường. Kiểu kiến trúc và tỉ lệ có thể bị ảnh hưởng bởi kiến trúc ở Syria, Tây Ban Nha hay Arab theo những nhà buôn, những người hành hương du nhập vào. Nhưng nó cũng được truyền cảm hứng bởi lòng yêu nước và kiêu hãnh mãnh liệt. Và bởi 1 cảm xúc mới: tính ganh đua. Tất cả các tu viện và cộng đồng cũng như thành phố muốn 1 nhà thờ to, đẹp hơn bất cứ của ai khác. Đó là dấu hiệu rất rõ ràng của lòng mộ đạo cũng như của cải và thành công của họ và của tất cả những người có đủ tiền trả cho kiến trúc sư và thợ nề làm những tòa nhà cho đế chế Cơ đốc giáo.
Ngày lại ngày, những tòa tháp và những bức tường này cứ chọc thẳng lên trời, tới đấng Chúa Trời tối cao và tới cả sự ghen tỵ của người hàng xóm thành bên. Ngày lại ngày, chúng sập xuống chỉ để được xây dựng lại. Thành phố tiếp nối thành phố, tu viện tiếp nối tu viện. Vào năm 1163, nhà thờ Đức Bà Paris có mái của gian giữa cao nhất với 103 feet- 31,4 m. Vào 1194, Chartres mái vòm cao 108 feet- 36,8 m. Vào 1212, Rheims 113 feet, 34,4 m. Chín năm sau (1221) Amiens đạt kỷ lục 128 feet- 39,1 m. Cuối cùng 1225, Beauvais cao nhất 157 foot, 47,7m. Vậy mà sau đó ½ TK tất cả đều sụp đổ. Thật may mắn, từ đó kiểu kiến trúc ấy cũng chết theo. Nhưng hãy nghĩ xem trước khi tòa tháp Pisa trở thành 1 điểm du lịch những người thợ xây đã cảm thấy thế nào, khi nó bị nghiêng. Hãy nghĩ đến những thủ đô mà lực lượng lao động và nguồn tài nguyên cùng tạo nên những công trình kiến trúc này. Các học giả đã tranh luận rằng các thành phố rất có triển vọng như Beauvais vào TK 13, sau này đã bị suy sụp 1 phần bất chấp những cố gắng nỗ lực to lớn của người dân (do xây dựng tốn kém). Trong khi những thành phố giàu có của Ý xây dựng những nhà thờ khiêm tốn hơn những thành phố ở phía Bắc. Họ cũng đầu tư của cải 1 cách có lợi nhuận hơn.
Vì thế đây cũng là 1 đặc điểm khác của thời Trung cổ. Sự ăn chơi sa đọa và cạnh tranh lẫn nhau giữa các tổ chức này đã khiến chúng ta nhớ tới nước Mỹ TK 19 khi tự tin và khao khát được thể hiện mình đã khiến cho nhiều thứ bị phá hỏng và xây dựng những thứ khác.
Truyền tải Văn hóa: Cùng thời gian đó, những sáng tạo này được coi như 1 công cụ ngôn ngữ, 1 hình thức thể hiện đối với những loại cảm giác tôn giáo tối cao nhất thuộc về niềm tự hào của dân chúng, của sức sáng tạo cá nhân trong 1 khu vực khi mà người châu Âu từ trước đến nay vẫn rất im tiếng. Bạn có thể nhìn thấy tất cả những điều đó trong 1 sự trang nhã đáng ngạc nhiên và những vòm cong của mái vòm cũng với những cột trong những bức tranh biếm họa kệch cỡm trang trí các căn phòng và đầu cột trong những công trình điêu khắc và các bức tranh tường ấn tượng minh họa cho các câu chuyện quen thuộc trong Kinh Thánh. Ví dụ như những chuyến bay đến Ai Cập hoặc sự cám dỗ của Eva,… Và trong sự pha trộn giữa nỗi sợ hãi và tính trần tục bạn có thể tìm thấy trong các quảng cáo ngây ngô trong các ô cửa kính màu mà các phường hội buôn bán tài trợ. Chúng ta thậm chí có thể nhìn thấy nghệ thuật Trung cổ như những nơi chứa đựng các giá trị nào đó. Cái mà có lẽ những thứ khác không thể diễn tả nỗi. Nhưng ở những nơi có đặc quyền này sự hài hòa, cân bằng rõ ràng là thiếu vắng trong thời gian này thỉnh thoảng vẫn có thể được tìm thấy trong các kiến trúc Rome.
Ví dụ sự chính xác sự rõ ràng của luật pháp cũng như văn bản đều không dám bôi nhọ trong thời Trung cổ vẫn được bắt gặp trong công việc của những người thợ xây tài ba trên các mái vòm, các tòa lâu đài, hầm mộ La Mã. Sự cao thượng, sự duyên dáng, sự thanh khiết thường thiếu đi trong cuộc sống đời thường của 1 kỷ nguyên Cơ đốc tàn bạo được thể ra trên các tòa tháp nhọn chọc trời của các nhà thờ kiến trúc Gotic TK 12 và 13. Khi các mái vòm Gotic có thể được xây dựng bằng kiểu kiến trúc chịu lực và có tính cân bằng.
Tuy vậy, cái cách mà nhà thờ được dựng lên không quan trọng bằng việc nó được xây dựng ở đâu: trong thành phố. Sự phục hưng của cuộc sống thành phố chính là thời Trung cổ – 1 thời kỳ có đóng góp lớn cho sự phát triển văn minh nhân loại. Khi nhìn vào khung cảnh thành phố thời Trung cổ, bạn có thể thấy các nhà thờ đồng thời cũng có các kiểu kiến trúc khác đang mọc lên để cạnh tranh với nó: những tòa tháp do phái quý tộc xây lên để giữ gìn các thái ấp của hệ tư tưởng cũ như giữa dòng họ Montagues và Capulet trong vở kịch.
Sự xuất hiện các Tòa tháp: Tòa tháp mà biến rất nhiều nơi thành 1 thành phố Manhattan thu nhỏ. Một cách đáng kể, hầu hết những tòa tháp này giờ đây đã biến mất. Ở Florence, nơi có 400 tòa tháp, giờ đây chỉ còn vài viên gạch. Bologna có 200 tòa giờ còn 2 tòa. Và các khách du lịch vẫn lái xe tới Gimignano 1 TP nhỏ với 4.000 người trên những quả đồi vùng Siena nhìn ngắm những tòa tháp ở đó. Giờ chỉ còn 13 tòa, trước đây là 70. Tòa tháp lớn nhất ở Siena là tòa thị chính. Và điều này hoàn toàn hợp lý vì đó là những tòa thị chính và sự trao đổi thương mại với châu Âu, cái đã thay thế tầm quan trọng của nhà thờ bằng 1 xã hội hiện đại mà sau này chính nó đã chiến thắng chế độ phong kiến.
Thương mại phát triển: (do nhu cầu cuộc sống) Nếu chiến tranh thứ nhất không nổ ra, có thể shop quần áo lớn ở Ypres thuộc Bỉ dài 433 feet, lớn hơn và lộng lẫy hơn hầu hết các nhà thờ. Cửa hàng này xây dựng vào 1200 bởi Bá tước vùng Flander. Tất cả điều này nói 2 điều. Thứ nhất 1 vài ông chủ biết được họ hứng thú trong việc gì. Thứ 2 là lợi ích lớn nhất từ bây giờ sẽ không phải có được từ trộm cắp và bạo lực mà còn được nhiều hơn nữa từ thương mại, đặc biệt là từ ngành dệt. Nhờ đó mà nhiều thành phố đã trở nên thịnh vượng như ở Anh, Flanders, Ý và Pháp. Thương mại thời Trung cổ nghĩa là trao đổi, trao đổi sản phẩm hoặc hàng hóa lấy 1 thứ khác, nó cũng có liên quan rất nhiều đến du lịch.
Mạng lưới thương mại châu Âu (đi từ Anh, bắc Âu đến Ý, băng qua Pháp): Trong TK 12 và 13, các hội chợ Champangne ở bắc Pháp trở thành những trung tâm trao đổi thương mại chính ở châu Âu, bởi vì các bá tước Champangne rất thông minh khi nâng cấp đường xá, xây dựng các khu chợ, lập ra các tòa án đặc biệt để thúc ép các vụ mua bán và các hợp đồng được thực hiện tại chợ và giữ ổn định trật tự cho đến khi phiên chợ kết thúc. Cứ 1 hoặc 2 tuần một lần, 6 lần 1 năm. Có rất nhiều thứ để vận chuyển và trao đổi, từ rượu cho đến nô lệ, từ gia vị đến các loại cá trích muối của vùng biển Baltic và biển bắc Hà Lan, đã tạo nên sự sầm uất ở đây. Ví dụ như ngô và gỗ xây dựng được thả xuống bờ sông Vistula, trên đường đến Anh hoặc tới các nước nằm ở khu vực thấp hơn, đã được vận chuyển bằng xà lan hay tàu biển. Ở Lubeck nó đã được bỏ xuống để vận chuyển ngang qua đất liền để đi đến Hamburg ở Elbe (tránh vòng qua bán đảo Đan mạch), rồi tiếp tục lên tàu đến những vùng xa xôi. Nhưng những trung tâm lớn nhất đã phát triển ở 2 chặng cuối của tuyến đường thương mại ở châu Âu ở vùng Flanders, xung quanh Ghent và Bruges, nơi các loại len nước Anh được đưa đến các châu lục khác bằng tàu buôn và lại quay về với vải vóc, và ở Ý, trung tâm thương mại Địa Trung Hải.
Quy mô thương mại: Khi chúng ta nói đến sự cạnh tranh thương mại giữa các thành phố, chúng ta không thể theo 1 tỉ lệ theo tiêu chuẩn hiện đại, tất cả mọi thứ phải được giữ ở 1 tỉ lệ nhỏ. Đã không có 1 thành phố châu Âu nào buôn bán với Constantinople. Cho đến TK18, Bruges có dân số 35.000 người. Milan và Venice, 2 TP lớn thứ 2 châu Âu có dân số gấp 4 – 5 lần. Florence, đáng lẽ đạt đỉnh 100.000 dân, trước khi ½ dân số chết vì dịch hạch. Vào TK 14, khi mà Florence sản xuất 80.000 quần áo 1 năm ít hơn rất nhiều so với doanh thu của 1 nhà xưởng ở Manchester vào 1850.
Khám phá thế giới và Thập Tự Chinh tăng thương mại: Vào TK 15, tất cả các lò rèn ở Styria, Áo, mà sau đó trở thành trung tâm luyện sắt của châu Âu, sản xuất được 2000 tấn/ năm. Ngày nay 1 nhà máy luyện thép có thể sản xuất ra nhiều hơn thế. Ngân hàng lớn Florence, với các chi nhánh khắp châu Âu có đội ngũ nhân viên khoảng 50 đến 100 người. Và tàu buôn thời đó chỉ là những chiếc thuyền đơn sơ. Vào 1492, các thuyền buồm nhỏ của Colombo đã được ráp với nhau có sức chứa 520 tấn, nhưng vẫn nhỏ hơn trăm lần kích cỡ chiếc tàu của Nữ hoàng Elisabeth II. Tuy vậy hoạt động của những chiếc tàu này đều trên quy mô khá mới và nhộn nhịp. Những người thực hiện những hoạt động này đều là những lớp người mới với những chân trời và tham vọng mới, đã gợi lại những ngày xa xưa. Mục tiêu của họ đã lớn dần lên bởi cuộc Thập tự chinh, điều mở ra cơ hội mới và thị trường mới đã đem lại tiền bạc mà đã đảo ngược dòng tiền đã từng chạy từ Tây sang Đông nhưng giờ thì chạy ngược lại tới châu Âu. Và những cuộc viễn chinh cũng đã khiến họ trở nên cao quý, thị hiếu sành điệu và khả năng tiêu thụ hàng hóa cũng góp phần quan trọng trong việc mở rộng thương mại. Các nhà buôn và các thành phố cũng được lợi từ các cuộc đấu tranh giữa các giáo hoàng và các hoàng đế điều đã khiến hầu hết các TP thoát khỏi sự kiểm soát của họ. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là các nhà buôn không thích thú nhiều lắm đến chính trị của triều đại phong kiến. Họ chỉ muốn hòa bình và ổn định hơn chiến tranh và sự hỗn loạn. Bởi vì hòa bình và ổn định tốt cho thương mại. Điều họ quan tâm là 1 trong số họ đã nói trong thư – chính là Chúa Trời và lợi nhuận. Mặc dù tôi không thể không nghi ngờ rằng lợi nhuận có thể đến trước. Nhưng đã có những sự hứng thú trước các cuộc phiêu lưu, các doanh nghiệp và sự cạnh tranh, đã kích thích các cuộc chiến tranh. Các nhà buôn Genoa TK 13 giống như Benedetto Zaccaria. Ông sở hữu các xưởng nhuộm ở Genoa, nhà máy phèn ở Tiểu Á và các đồn điền ở các đảo Hi Lạp và Chios. Ông ta cũng giám sát các cảng và những nơi trao đổi thương mại ở Imea, Syria và nam Tây Ban Nha. Ông ta cũng buôn bán gia vị và dao kéo. Từ khi đĩa xuất hiện vào cuối thời Trung cổ và sau đó trở thành 1 món đồ rất tinh xảo. Zaccaria cũng buôn bán vải vóc, lông thú, muối, ngũ cốc và bồ tạt.
Phát triển phương thức thương mại mới: Chính những người đàn ông như Benedetto Zaccaria đã phát triển phương thức thương mại mới: kỹ năng tăng cường vốn tư bản và di chuyển vốn; trao đổi bằng hóa đơn, hối phiếu; trực tiếp trả 1 số tiền cụ thể cho 1 người nào đó và cái có thể được dùng để trao đổi với người thứ 3, 4, 5. Và có những nơi được gọi là nơi giao dịch mà việc trao đổi hàng hóa được thực hiện trên những tờ giấy mà chẳng cần phải nhìn; Và việc đặt chổ 1 lúc được 2 lần để theo dõi hoạt động mua bán; và những hiệp hội mới được gọi là công ty; ở đó bạn có thể mua cổ phiếu để tăng sự mạo hiểm; và bảo hiểm để phòng tránh những rủi ro. Vì luôn luôn có những rủi ro và thường là các vấn đề cá nhân cũng như các vấn đề tài chính, đặc biệt là từ các nhà buôn mà thường đi lại buôn bán 1 mình, từ nơi xa lạ này đến nơi xa lạ khác. Trong thế giới Trung cổ, “nơi xa lạ” là nơi cách nhà 5 – 10 dặm.
Khó khăn, bản lĩnh của nhà buôn: Đây là lời khuyên, mà 1 nhà buôn người Nauy dành cho con mình: “Người nào muốn trở thành nhà buôn phải trãi qua rất nhiều nguy hiểm, có khi ở đất liền, cũng có khi ở ngoài đảo xa xôi”. Nhưng gần như giữa những người xa lạ này và phải là những mục đích liên tục, phải hành động 1 cách thận trọng bất luận điều gì đó xảy ra. Nếu bạn đến 1 nơi mà nhà vua hoặc vị tướng nào đó dùng uy quyền để uy hiếp bạn và nếu họ muốn bất kì loại phí nào nhân danh người thống trị thì ngay lập tức phải giao nộp cho họ; nếu cố gắng giữ chặt nhất những cái nhỏ nhất thì có thể mất những cái lớn hơn. Dù trả 1 cái giá tốt cho hàng hóa của bạn, mặc dù không quá cao. Và tuy là rất gần cái mà bạn nhìn thấy và bạn chiếm giữ, thì bạn cũng không bị gọi là kẻ xảo trá.
Vai trò thương mại: Vì thế bây giờ trong khi những nhà buôn đang giúp đỡ để thay đổi cấu trúc nền kinh tế châu Âu, họ bắt đầu thay đổi cấu trúc xã hội. Ví dụ từ “công ty” đến từ việc ghép những cái bánh mì lại với nhau có nghĩa chung chỉ dòng dõi quý tộc. Alexander có những người bạn đồng hành, cả Charlemagne cũng vậy. Khi thế giới chính thức trở thành thế giới thương mại, nó làm nảy ra trong ý chí người đàn ông tham vọng về sự quyền quý và 1 vài trong số họ giống như những ông hoàng và có quyền lực lớn giống như Jacques Coeur, người từng là chuyên gia tài chính và là cố vấn của vua nước Pháp vào những năm 1400. Lâu đài ông ta nằm ở Bourges vẫn là tòa nhà kiểu Gothic vẫn còn được bảo quản đến ngày nay.
Đã có những người phát minh ra những ngân hàng hiện đại được đặt tên Thebanchi, nghĩa là cái ghế dài mà những nhà buôn và những người trao đổi tiền tệ sử dụng ở chợ giống như Benedetto Zaccaria hay Jacques Coeur – những ông chủ ngân hàng tiến hành các vụ giao dịch. Ở những nơi sang trọng cũng như những nơi thấp kém nhất trên 1 nguyên tắc chung mà sự đa dạng của việc đầu tư đã gây nên nguy cơ. Họ sớm tiến xa hơn nữa để giúp đỡ các cuộc vận động lớn để cho vua vay tiền – và cuối cùng bị phá sản khi những khoản vay này không được trả – để tiếp quản tài chính của Đức Giáo hoàng. Và cuối cùng từ việc tài trợ tiền bạc cho Giáo hoàng và các vị vua đến việc tạo ra (quyền lực) họ. Gia đình Medici ở Florence, có tới 4 người làm giáo hoàng và 2 hoàng hậu Pháp, chỉ riêng trong TK 16.
Nhưng các gia đình và các thành viên đã tăng lên trên thế giới trong tất cả mọi kiểu xã hội trong mọi kiểu thời đại. Quan trọng hơn là những ý niệm mà họ đã thêu dệt nên trong việc đầu tư, và trong 1 thứ gì đó khác hơn là sự cứu rỗi linh hồn và kiếp sau của các doanh nghiệp và thứ gì đó hơn là trộm cắp và bạo lực; có tầm quan trọng là khả năng viết, đọc cũng như tính chính xác; rất đơn giản, cái chúng ta có khuynh hướng làm mất uy tín chính là “giá trị của giai cấp tư sản” – tính chăm chỉ, tình tằn tiện, tính trung thành, tính trách nhiệm. Tất cả những điều đó có thể chán ngắt, nhưng đều là 1 phát triển to lớn trên tất cả, những cuộc đổ máu do tình trạng vô chính phủ gây ra trước đó. (Sân chơi tìm Lợi nhuận từ buôn bán hơn là chiến tranh giành giựt tài sản, đất đai, … trước đây)
Nguồn : 52 tập phim Văn Minh Phương Tây
Hiệp Hội Bảo tàng Nghệ thuật Đô Thị.
GS Eugen Weber, Giảng viên môn Lịch sử, U.C.L.A., Los Angeles