Vai Trò Của Xuất Khẩu Trong Nền Kinh Tế

Vai Trò Của Xuất Khẩu Trong Nền Kinh Tế

Trong những năm qua, cây cao su đã khẳng định được vị trí của mình trong tập đoàn cây công nghiệp dài ngày và ngành sản xuất cao su thiên nhiên đã trở thành ngành sản xuất có hiệu quả toàn diện. Cây cao su và công nghiệp chế biến các sản phẩm của cây cao su đã trở thành một trong những ngành kinh tế mòi nhọn của đất nước. Cùng với một số mặt hàng khác cao su Việt nam đã và đang trở thành mặt hàng chủ lực có sức cạnh tranh lớn trên thị trường quốc tế. Từ khi Tổng quan phát triển ngành cao su Việt nam đến năm 2010 được phê duyệt tháng 2/1995, sản xuất cao su trong nước không ngừng lớn mạnh: diện tích cao su tăng 7,9%/năm, sản lượng mủ tăng 15,8%/năm, và năng suất tăng 8,4%/năm. Bên cạnh đó, công nghiệp sơ chế mủ cao su cũng đã được đầu tư cải tiến công nghệ, hiện đại hoá dây chuyền sản xuất, đưa công suất chế biến tăng nhanh từ 180 nghìn tấn năm 1994 lên 294 nghìn tấn năm 2000 để đảm bảo chế biến hết lượng mủ sản xuất ra. Đặc biệt, chủng loại sản phẩm có nhiều chuyển biến, trong đó tỷ lệ loại mủ SVR 10,20 tăng từ 9% lên 13-15% để phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới.

Trong những năm qua, cây cao su đã khẳng định được vị trí của mình trong tập đoàn cây công nghiệp dài ngày và ngành sản xuất cao su thiên nhiên đã trở thành ngành sản xuất có hiệu quả toàn diện. Cây cao su và công nghiệp chế biến các sản phẩm của cây cao su đã trở thành một trong những ngành kinh tế mòi nhọn của đất nước. Cùng với một số mặt hàng khác cao su Việt nam đã và đang trở thành mặt hàng chủ lực có sức cạnh tranh lớn trên thị trường quốc tế. Từ khi Tổng quan phát triển ngành cao su Việt nam đến năm 2010 được phê duyệt tháng 2/1995, sản xuất cao su trong nước không ngừng lớn mạnh: diện tích cao su tăng 7,9%/năm, sản lượng mủ tăng 15,8%/năm, và năng suất tăng 8,4%/năm. Bên cạnh đó, công nghiệp sơ chế mủ cao su cũng đã được đầu tư cải tiến công nghệ, hiện đại hoá dây chuyền sản xuất, đưa công suất chế biến tăng nhanh từ 180 nghìn tấn năm 1994 lên 294 nghìn tấn năm 2000 để đảm bảo chế biến hết lượng mủ sản xuất ra. Đặc biệt, chủng loại sản phẩm có nhiều chuyển biến, trong đó tỷ lệ loại mủ SVR 10,20 tăng từ 9% lên 13-15% để phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới.

Xuất khẩu là phương tiện chính tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

nhiệm vụ trọng tâm cơ bản của việt nam trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 - 2010 là: phát triển kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hoá đất nước.

để tiến hành công nghiệp hoá-hiện đại hoá thì cần phải có đủ 4 nhân tố nhân lực, tài nguyên, nguồn vốn và kỹ thuật. nhưng hiện nay, không phải bất cứ quốc gia nào cũng có đủ các yếu tố đó đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có việt nam.

để công nghiệp hoá-hiện đại hoá đòi hỏi phải có số vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật,công nghệ tiến tiến.

nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như:

- từ tích luỹ trong nền kinh tế quốc dân

- thu từ hoạt động du lịch, dịchvụ thu ngoại tệ.

Xuất khẩu tác động tích cực dến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.

tác động của xuất khẩu đến đời sống của người dân bao gồm rất nhiều mặt. trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập khá. xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú thêm nhu cầu người dân.

Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta.

quan hệ kinh tế đối ngoại là tổng thể các mối quan hệ về thương mại, kinh tế và khoa học kỹ thuật giữa một quốc gia này với một quốc gia khác. các hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế là xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình, đầu tư quốc tế, du lịch dịch vụ, xuất khẩu lao động, hợp tác khoa học kỹ thuật, hợp tác sản xuất, hợp tác tài chính.

xuất khẩu là một hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. hiện nay nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng về xuất khẩu (tất nhiên không coi nhẹ sản xuất trong nước và thị trường trong nước), khuyến khích tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước.

hoạt động xuất khẩu với các công ty có ý nghĩa rất quan trọng. thực chất nó là hoạt động bán hàng của các công ty xuất nhập khẩu và thu lợi nhuận từ hoạt động này góp phần quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty. lợi nhuận là nguồn bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh, các quỹ của công ty. lợi nhuận cao cho phép công ty đẩy mạnh tái đầu tư vào tài sản cố định, tăng nguồn vốn lưu động để thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu, giúp công ty ngày càng mở rộng và phát triển.

xuất khẩu hàng hoá còn có vai trò nâng cao uy tín của công ty trên trường quốc tế. nó cho phép công ty thiết lập được các mối quan hệ với nhiều bạn hàng ở các nước khác nhau và sẽ rất có lợi cho công ty nếu duy trì tốt mối quan hệ này. để có được điều này công ty, ngược lại phải đáp ứng tốt các yêu cầu của khách hàng về giá cả, chất lượng hàng hoá, phương thức giao dịch, thanh toán,...

xuất khẩu ngày nay luôn gắn liền với cạnh tranh do vậy đòi hỏi các công ty phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh... sao cho phù hợp với tình hình thực tế để hoạt động đạt hiệu quả cao. kết quả của hoạt động xuất khẩu sẽ cho phép công ty tự đánh giá được về đường lối chính sách, cách thức thực hiện của mình để có những điều chỉnh phù hợp giúp công ty phát triển đi lên.

Bờ vực khủng hoảng của ngành y tế

Những người tham gia đình công và nộp đơn xin nghỉ việc hiện chiếm 10% số bác sĩ tại Hàn Quốc, theo số liệu của chính phủ. Tình trạng ấy đang đẩy ngành y tế Hàn Quốc đến gần bờ vực khủng hoảng.

Không chỉ gây gián đoạn hoạt động khám chữa bệnh, cuộc đình công của các bác sĩ có thể còn ảnh hưởng đến kinh tế Hàn Quốc. Chăm sóc y tế và các lĩnh vực liên quan đóng góp không nhỏ cho GDP Hàn Quốc.

Vài năm qua, Hàn Quốc tăng trưởng ổn định, khiến thu nhập khả dụng và chi tiêu cho y tế đều tăng lên. Báo cáo năm 2023 của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cho thấy trung bình, người Hàn Quốc chi 4.570 USD một năm cho dịch vụ y tế, tương đương 9,7% GDP, cao hơn trung bình các nước OECD là 9,2%.

Người Hàn Quốc cũng có yêu cầu cao với dịch vụ và công nghệ y tế. Họ sẵn sàng trả số tiền lớn để được chăm sóc nhanh và hiệu quả. Bên cạnh đó, nước này còn có cấu trúc dân số già. Số người cao tuổi ngày một lớn cũng kéo nhu cầu dịch vụ y tế lên cao.

Vì thế, chính phủ Hàn Quốc đầu tư mạnh tay cho ngành y tế, đặc biệt là cơ sở hạ tầng và dịch vụ tại vùng nông thôn. Họ cũng áp dụng nhiều chính sách để khuyến khích lĩnh vực y tế tăng trưởng, như ưu đãi thuế cho các dự án nghiên cứu và phát triển (R&D).

Hàn Quốc hiện có hệ thống chăm sóc sức khỏe tiên tiến, với lượng lớn bệnh viện và cơ sở y tế khắp cả nước. Website cung cấp số liệu thống kê Statista tiết lộ doanh thu các bệnh viện tại Hàn Quốc đạt tổng cộng 74,37 tỷ USD năm 2023. Con số ấy vẫn tăng trưởng đều đặn kể từ năm 2016 và được dự báo lên sát 89 tỷ USD năm 2028. Tính trung bình, mỗi bệnh viện thu về khoảng 43,65 triệu USD năm 2023.

Korea Biomedical Review - báo điện tử chuyên ngành y khoa tại Hàn Quốc - cũng cho biết năm 2022, cả 5 bệnh viện lớn nhất Hàn Quốc đều ghi nhận lợi nhuận và doanh thu tăng trưởng. Nguồn thu từ cả hoạt động khám chữa bệnh và khám sức khỏe định kỳ đều đi lên. Tổng cộng, Bệnh viện Đại học Yonsei, Bệnh viện Đại học Quốc gia Seoul, Trung tâm Y tế Samsung, Bệnh viện Asan và Bệnh viện St. Mary Seoul ghi nhận doanh thu gần 9 tỷ USD.

Không chỉ có nguồn thu trong nước, ngành y tế Hàn Quốc còn thu hút người nước ngoài. Hàn Quốc hiện là điểm đến ưa thích cho dịch vụ du lịch phẫu thuật thẩm mỹ.

Korea Herald trích số liệu của Viện Phát triển Sức khỏe Hàn Quốc cho biết năm 2022, trong 293.000 bệnh nhân nước ngoài ở Hàn Quốc, có tới 82.000 người đến đây để chăm sóc sắc đẹp và phẫu thuật thẩm mỹ. Đây là con số kỷ lục.

Người Thái Lan chiếm phần lớn trong số người sử dụng dịch vụ phẫu thuật thẩm mỹ và chăm sóc sắc đẹp. Các vị trí tiếp theo thuộc về Nhật Bản, Trung Quốc và Mỹ. Hãng nghiên cứu thị trường Imarc (Ấn Độ) ước tính quy mô thị trường du lịch chăm sóc y tế tại Hàn Quốc đạt 1,9 tỷ USD năm 2023.

Time chỉ ra rằng hệ thống y tế tại Hàn Quốc có mức độ tư nhân hóa cao. Thu nhập của các bác sĩ ở xứ kim chi cũng thuộc nhóm tốt nhất thế giới. Lương trung bình của một bác sĩ chuyên khoa tại bệnh viện cũng có thể lên 200.000 USD một năm. Các thực tập sinh và bác sĩ nội trú tại Hàn Quốc có thu nhập khoảng 3.000 USD một tháng, cao hơn mức lương trung bình ở Seoul. Diplomat đưa tin các bệnh viện ở xa thậm chí có thể trả cho bác sĩ 700.000 USD một năm.

Tuy nhiên, số bác sĩ và y tá trên 1.000 dân của Hàn Quốc lại ở mức khá thấp so với trung bình các nước OECD. Hai số liệu này lần lượt là 2,6 và 8,8.

Các thực tập sinh và bác sĩ nội trú nước này cũng thường phải làm việc hơn 80 giờ một tuần, theo New York Times. Các bác sĩ trẻ đóng góp ít nhất một phần ba nhân sự trong các bệnh viện lớn và là nhóm đầu tiên tiếp xúc với bệnh nhân.

Đây cũng chính là nhóm đang tham gia cuộc đình công hiện tại. Trên Korea Herald, các chuyên gia nhận định nhiều bác sĩ phản đối kế hoạch tăng chỉ tiêu tuyển sinh trường Y khoa vì nhiều bệnh viện, chủ yếu là tư nhân, hoạt động theo cơ cấu định hướng lợi nhuận.

Jeong Hyoung-sun, giáo sư quản lý y tế tại Đại học Yonsei, nói rằng ở các nước phương Tây, bệnh viện công chiếm hơn 50% cơ sở y tế. Vì vậy, bác sĩ muốn có thêm đồng nghiệp để giảm khối lượng công việc mà tiền lương không đổi.

Tuy nhiên, ở Hàn Quốc, nhiều bác sĩ điều hành phòng khám riêng. Nếu có thêm đối thủ cạnh tranh trong tương lai, có thể thu nhập của họ sẽ giảm.

Giới chức Hàn Quốc khẳng định họ sẵn sàng đối thoại với các bác sĩ và hoan nghênh các giải pháp để cải thiện kế hoạch tăng chỉ tiêu tuyển sinh. Tuy nhiên, mức độ của sự việc lần này khiến Jeong Hyung-jun - Giám đốc chính sách tại Nhóm các nhà hoạt động y tế Hàn Quốc dự báo dịch vụ y tế có thể gián đoạn cả năm. Nếu các bác sĩ cấp cao hơn cũng tham gia đình công, hậu quả sẽ còn nghiêm trọng hơn rất nhiều.

xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ vượt qua biên giới quốc gia trên cơ sở dùng tiền tệ làm đơn vị thanh toán. tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc đối với cả hai quốc gia. xuất khẩu là hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối ngoại, đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển.

mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của các quốc gia trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện với nhiều loại hàng hoá khác nhau. phạm vi hoạt động xuất khẩu rất rộng cả về không gian và thời gian.