Cơ Hội Của Ngành Thủy Sản Việt Nam

Cơ Hội Của Ngành Thủy Sản Việt Nam

Cơ hội và thách thức ngành nuôi trồng thủy sản trên biển

Cơ hội và thách thức ngành nuôi trồng thủy sản trên biển

Thách thức ngành thủy sản Việt Nam phải đối mặt

Ngành thủy sản Việt Nam là một trong những ngành kinh tế quan trọng, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế biển, bảo đảm an ninh lương thực, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho cộng đồng ngư dân ven biển. Tuy nhiên, ngành thủy sản Việt Nam cũng đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức như:

Cơ hội phát triển ngành nuôi trồng thủy sản trên biển của Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia có bờ biển dài hơn 3.260 km, diện tích vùng biển khoảng 1 triệu km2 và hơn 3.000 đảo lớn nhỏ. Đây là những ưu thế và tiềm năng lớn cho phát triển ngành nuôi trồng thủy sản trên biển, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế biển, bảo đảm an ninh lương thực, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho cộng đồng ngư dân ven biển. Việt Nam có rất nhiều vùng, địa phương có thể phát triển nuôi biển, được chia thành 4 vùng chính: Vùng phía Bắc – nơi các cửa sông, cửa biển có thể phát triển nuôi cám nhuyễn thể, giáp xác; vùng Duyên hải miền Trung có thể nuôi cá biển quy mô lớn; vùng Đông nam bộ và vùng Tây nam bộ. Đối tượng nuôi trồng thủy sản biển cũng rất phong phú từ các loại cá đến các loại nhuyễn thể (ngao, sò, hàu,…), giáp xác, rong biển cũng đang có tiềm năng lớn để phát triển.

Ngành nuôi trồng thủy sản trên biển của Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Theo Tổng cục Thủy sản, tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản trên biển năm 2021 đạt 700.000 tấn (trong đó: nhuyễn thể đạt 471.000 tấn, cá biển đạt 58.000 tấn, tôm hùm 2.200 tấn, rong biển đạt xấp xỉ 130.000 tấn). Các loại thủy sản nuôi trồng chủ yếu là tôm sú, cá tra, cá rô phi, cá hồi, cá mú, cá bớp, cá ngừ, cá thu, cá hố và các loại nhuyễn thể như sò điệp, sò huyết, sò dương và các loại rong biển.

Ngoài ra, ngành nuôi trồng thủy sản trên biển cũng được Nhà nước quan tâm và hỗ trợ bằng nhiều chính sách khuyến khích và ưu đãi. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” với mục tiêu: “Phát triển nuôi biển trở thành một ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, công nghiệp, đồng bộ, an toàn, hiệu quả, bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái; tạo ra sản phẩm có thương hiệu, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu; giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện kinh tế xã hội và nâng cao thu nhập cho cộng đồng cư dân ven biển; góp phần tham gia bảo vệ an ninh, quốc phòng vùng biển đảo của Tổ quốc”. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản trên biển dự kiến đạt 270.000 ha vào năm 2030 và 300.000 ha vào năm 2045.

Bên cạnh đó, ngành nuôi trồng thủy sản trên biển cũng được hưởng lợi từ nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu cao. Thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã được mở rộng sang nhiều quốc gia và khu vực khác nhau như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Châu  u… Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2020 đạt 8,4 tỷ USD, tăng 1,6% so với năm 2019. Trong đó, các sản phẩm nuôi trồng thủy sản trên biển như tôm sú, cá tra, cá hồi, cá ngừ… có giá trị xuất khẩu cao và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu thủy sản.

Ngành nuôi trồng thủy sản trên biển hưởng lợi nhiều nhờ tiêu thụ trong nước cao

Mở rộng kinh doanh trong ngành thủy sản?

Triển lãm thủy sản Aquaculture Vietnam sẽ được diễn ra đồng thời cùng triển lãm chăn nuôi Vietstock tại Trung tâm Hội chợ & Triển lãm Sài Gòn (SECC), TP. Hồ Chí Minh, từ ngày 09 đến 11 tháng 10 năm 2024. Đây sẽ là đến điểm đến toàn diện ngành chăn nuôi và thủy sản tại Việt Nam và khu vực.

Đăng ký trưng bày: https://aquafisheriesexpo.com/dat-gian-hang/

Các mặt hàng thủy sản XK chủ lực của VN vẫn là tôm, cá tra, cá biển, nhuyễn thể và các loại thủy sản đông lạnh...

Từ nhiều năm nay, các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực của VN vẫn là tôm, cá tra, cá biển, nhuyễn thể, các loại thủy sản đông lạnh và các loại thủy sản khô. Cơ cấu các mặt hàng XK của nước ta ngày càng bổ sung thêm các mặt hàng có giá trị như cá ngừ, nghêu và một số đặc sản khác.

Con tôm đang được phát triển nuôi rất rầm rộ trên toàn thế giới, sản lượng tôm ngày càng tăng, đến nay theo ước tính có thể đạt gần 3 triệu tấn, thỏa mãn tương đối tốt nhu cầu tiêu thụ chung của thế giới.

Trong bối cảnh nguồn cung dồi dào, con tôm có thể nói là mặt hàng cạnh tranh gay gắt nhất trong các mặt hàng TS thương mại trên thế giới, con tôm Việt Nam đã phải nỗ lực rất nhiều để duy trì tiềm năng xuất khẩu.

9 tháng đầu năm, XK tôm đạt gần 112 nghìn tấn, trị giá trên 1,067 tỷ USD, chỉ tăng rất nhẹ 1,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2006. XK tôm vẫn giữ vị trí là mặt hàng XK số 1, chiếm 39,4% tổng giá trị XKTS của nước ta. XK tôm tăng trưởng nhẹ là kết quả của nhiều yếu tố như sản lượng tôm nguyên liệu trong nước không tăng, giá tôm nguyên liệu luôn giữ mức cao so với nhiều nước sản xuất tôm trong khu vực và giá thành sản xuất nói chung tăng. Xu hướng của nhiều DN chế biến hiện nay là tăng tỷ trọng sản phẩm tôm GTGT, phù hợp với nhu cầu của các thị trường lớn như Nhật và Mỹ.

Vị trí mặt hàng XK lớn thứ 2 là cá tra. Mấy năm gần đây con cá tra thể hiện rõ tiềm năng to lớn trên vùng sông nước ĐBSCL, tạo nên sức tăng trưởng nhảy vọt của xuất khẩu thủy sản VN. 9 tháng đầu năm, XK cá tra đạt trên 272,7 nghìn tấn, trị giá trên trên 709 triệu USD, tăng khá mạnh 37,2 % về giá trị so với cùng kỳ năm 2006. XK cá tra chiếm 26,2% tổng giá trị XKTS. Hiện nay, EU, Đông Âu và một số nước Bắc Mỹ vẫn có nhu cầu cao đối với philê cá tra đông lạnh, đây là sự thay thế thích hợp cho philê cá thịt trắng hiện đang sụt giảm dần sản lượng trên phạm vi toàn thế giới. Vì vậy, kết hợp với tiềm năng công suất nuôi đang tăng mạnh trong nước, giá nguyên liệu đang ở mức vừa hợp lý, xuất khẩu cá tra sẽ tiếp tục lập kỷ lục mới trong năm 2007.

XK cá ngừ cũng đạt được tiến bộ lớn, đạt trên 39,2 nghìn tấn, trị giá trên trên 111 triệu USD, với sức tăng trưởng khá cao 27,8% so với cùng kỳ năm 2006. Đơn giá của cá ngừ đại dương khá cao, vì vậy đây cũng là đối tượng sản phẩm thu hút sự đầu tư phát triển của các ngư dân và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu.

Một điểm đáng chú ý và lạc quan trong tình hình XKTS của VN là mặt hàng mực và bạch tuộc đông lạnh đạt mức tăng trưởng có thể nói là cao nhất trong mấy năm gần đây với 35,5% cao hơn về giá trị so với cùng năm ngoái, đạt 60,4 nghìn tấn, trị giá 205,5 triệu USD, chiếm 7,7% tổng XKTS của nước ta. XK mặt hàng này đạt được kết quả khả quan một phần là nhờ sản lượng khai thác trong vài năm gần đây đã cải thiện lên khá nhiều.

XK cá các loại là mảng hàng hóa quan trọng luôn giữ mức tăng trưởng khá. 9 tháng đầu năm, XK cá đạt trên 85 nghìn tấn, trị giá gần 249,1 triệu USD, tăng 17,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2006. Dự đoán, XK cá các loại sẽ tiếp tục nhịp độ tiến triển như trong thời gian qua.

Bên cạnh các mặt hàng chủ lực, XK hàng khô và hải sản khác chỉ tăng ở mức khiêm tốn về giá trị và có giảm nhẹ về khối lượng. Tuy nhiên, tổng XK của các mặt hàng này cũng chiếm một phần đáng kể trong toàn bộ giá trị XK của TS VN với giá trị trên 365,6 triệu USD.

Hiệp định EVFTA có hiệu lực đã và đang tạo lợi thế cạnh tranh cho các sản phẩm của Việt Nam về thuế nhập khẩu với các đối thủ, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập và mở rộng thị phần tại khu vực Bắc Âu.

Tôm là mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Bắc Âu

Khi EVFTA có hiệu lực, gần 50% số dòng thuế được áp dụng thuế suất cơ bản từ 0-22%, trong đó phần lớn các loại thuế cao từ 6-22% sẽ giảm về 0% (khoảng 840 biểu thuế dòng). Khoảng 50% số dòng thuế còn lại có thuế suất cơ bản từ 5.5-26% sẽ giảm về 0% sau 3-7 năm. Đối với các sản phẩm cá ngừ và cá viên đóng hộp, hạn ngạch thuế quan của EU đối với Việt Nam là 11.500 tấn và 500 tấn tương ứng.

Tôm và phi lê cá đông lạnh là hai mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Bắc Âu. Theo Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển, kiêm nhiệm Đan Mạch, Na Uy, Iceland, và Latvia, so sánh với các nước khác xuất khẩu thủy sản vào EU, lợi thế rõ rệt với tôm sú, tôm chân trắng đông lạnh khi tôm sú được giảm từ mức thuế GSP 4,2% về 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực, tôm chân trắng đông lạnh sẽ giảm dần về 0% sau 5 năm, trong khi Thái Lan và Ecuador không được hưởng GSP, không ký FTA, bị mức thuế cơ bản 12%; hay Ấn Độ và Indonesia cũng không có FTA, chịu thuế GSP 4,2%.

"Đối với mặt hàng tôm, đây là mặt hàng thủy sản chủ lực của Việt Nam sang Bắc Âu. Việt Nam là nhà sản xuất tôm sú lớn nhất thế giới và là nước xuất khẩu tôm sú lớn thứ hai sang châu Âu. Điều thuận lợi đối với tôm Việt Nam đó là rất nhiều tôm sú từ Việt Nam được đưa vào các siêu thị và chợ dịch vụ thực phẩm cao cấp của châu Âu. Nguyên nhân chính là do đã có một số lượng đáng kể các nhà sản xuất tôm sú được chứng nhận ASC ở Việt Nam. Tại các thị trường này, các nhà xuất khẩu của Việt Nam gặp rất ít hoặc không có sự cạnh tranh"- bà Nguyễn Thị Hoàng Thúy - Tham tán thương mại Việt Nam tại Thụy Điển cho hay.

Đối với sản phẩm cá tra đông lạnh đang hưởng thuế GSP 5,5% sẽ được hưởng thuế EVFTA 0% sau 3 năm, trong khi cá nước Indonesia sẽ vẫn chịu thuế GPS 5,5% và Trung Quốc chịu thuế cơ bản 0%. Theo bà Nguyễn Thị Hoàng Thúy, Việt Nam chi phối nhập khẩu cá tra vào thị trường châu Âu. Hiện tại, không có đối thủ cạnh tranh đáng kể đối với Việt Nam trên thị trường này. Hầu hết các sản phẩm cá tra xuất khẩu sang Bắc Âu đều có xuất xứ từ Việt Nam.

Bên cạnh mặt hàng tôm, cá tra đông lạnh được hưởng lợi từ EVFTA, một số mặt hàng chế biến có thuế suất cơ bản cao (20%) cũng sẽ giảm ngay về 0% như hàu, sò điệp, mực, bạch tuộc, nghêu, bào ngư...; hầu hết các mặt hàng mực, bạch tuộc đông lạnh có mức thuế cơ bản từ 6 – 8% sẽ giảm ngay về 0%; các sản phẩm khác như surimi giảm từ 14,2% xuống 0%, cá kiếm từ 7,5% xuống còn 0%...

Ngoài ra, các mặt hàng thủy sản Việt Nam tại Bắc Âu cũng được đánh giá có chất lượng cao, chi phí, giá thành thấp, nên dễ dàng vượt qua các rào cản về vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước Bắc Âu, đồng thời giá cả cạnh tranh với các nước trong khu vực.

Bên cạnh đó,  các nhà cung cấp Việt Nam và các nhà nhập khẩu châu Âu đã xây dựng được mối quan hệ bền vững và lâu dài với nhau, do đó, Việt Nam có lợi thế cạnh tranh cao. Lao động Việt Nam có giá cả phải chăng và các nhà máy được thành lập để chế biến cá tra nguyên liệu thành sản phẩm ưa thích của người tiêu dùng châu Âu. Phần lớn các sản phẩm cá tra, basa được xuất khẩu sang đây dưới dạng philê đông lạnh.

Để thủy sản Việt có thể "bám rễ" tại thị trường Bắc Âu

Mặc dù, Hiệp định EVFTA có hiệu lực giúp thuỷ sản Việt Nam có thêm lợi thế cạnh tranh, thị trường Bắc Âu nhỏ, các nước này lại chủ yếu nhập khẩu từ các nước xung quanh, nên thuỷ sản Việt Nam khó có cơ hội tăng kim ngạch, hoặc có tăng cũng không đáng kể.

Hiện nay, cá tra chi phối thị trường châu Âu và cá tra xuất hiện tại Bắc Âu chủ yếu có xuất xứ từ Việt Nam, nhưng thị phần cá tra Việt Nam tại Bắc Âu khá khiêm tốn, chỉ 0,4% tại Thụy Điển, 0,9% tại Đan Mạch và 2,6% tại Na Uy. Sở dĩ thị phần còn khiêm tốn, theo bà Nguyễn Thị Hoàng Thúy là do các doanh nghiệp Bắc Âu nhập khẩu cá tra Việt Nam chủ yếu thông qua trung gian từ các nước EU khác, lượng nhập khẩu trực tiếp từ Việt Nam không đáng kể. Ngoài ra, thị trường Bắc Âu là thị trường khó tính, với các quy định khắt khe cũng là một khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác, hiện nay, doanh nghiệp vẫn chưa tận dụng hết cơ hội do EVFTA. Thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào khu vực này chủ yếu là hàng đông lạnh, nguyên liệu thô hoặc sơ chế qua, hàng có giá trị cao còn ít nên chưa tận dụng được lợi thế về ưu đãi thuế quan do Hiệp định EVFTA mang lại...

Để thủy sản có thể "bám rễ" tại thị trường Bắc Âu, theo bà Nguyễn Thị Hoàng Thúy, ngoài việc cung cấp đúng sản phẩm, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam còn phải tuân thủ rất nhiều các quy định của thị trường, nghiên cứu các yêu cầu bắt buộc của thị trường trên các cổng thông tin chính thức của EU như Trade Help Desk, CBI để hiểu các thủ tục liên quan đến thủy sản.

Bên cạnh đó, cần đáp ứng các yêu cầu bổ sung như chứng nhận an toàn thực phẩm, chứng nhận tuân thủ xã hội, chứng nhận bền vững, các yêu cầu đối với thị trường ngách. Đặc biệt, các doanh nghiệp cần lưu ý dán nhãn với thông tin chính xác.

"Dán nhãn sai tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh. Bắc Âu nhập khẩu chủ yếu cá phile và tôm bóc vỏ của Việt Nam. Những sản phẩm này rất nhạy cảm với những sai sót như ghi sai số lượng nước thêm vào qua quá trình mạ băng và ngâm nước. "- bà Nguyễn Thị Hoàng Thúy lưu ý.

Ngoài ra, người tiêu dùng Bắc Âu cũng quan tâm đến nguồn gốc của thực phẩm, cách thức sản xuất và hành trình đến bàn ăn tiếp tục tăng lên.